PHONG TỤC - LỄ HỘI CỦA ĐỒNG BÀO KHMER TỈNH SÓC TRĂNG

15/02/2023 450 0

Phong tục tập quán và lễ hội là di sản văn hóa phi vật thể, phản ánh nét đẹp sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư, mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Người Khmer Nam bộ nói chung và Sóc Trăng nói riêng, vốn có truyền thống văn hóa từ lâu đời và có nền văn minh phát triển từ khá sớm. Những nét đẹp văn hóa của đồng bào Khmer đã có nhiều đóng góp tích cực vào kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, tạo nên một bức tranh tổng thể góp thêm sự phong phú, thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây một số phong tục tập quán và lễ hội có hiện tượng mai một theo thời gian và bị biến đổi khá rõ nét trong quá trình giao thoa văn hóa giữa 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Nhằm hệ thống hóa các phong tục - lễ hội của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh, làm tư liệu cho Đảng, Nhà nước tham khảo trong hoạch định và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách công tác đối với dân tộc Khmer; đồng thời góp phần định hướng tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù trong hoạt động phát triển du lịch của địa phương.

     

Đua ghe Ngo Sóc Trăng; Ảnh Quốc Quân

Lễ Cúng Trăng; Ảnh Quốc Quân

Lễ thả Đèn nước; Ảnh Quốc Quân

     Người Khmer Sóc Trăng có 4 đặc điểm loại hình cư trú bao gồm trên đất giồng; đất ruộng; ven theo kênh, các con rạch nhỏ; và dọc theo trục lộ giao thông. Tổ chức xã hội truyền thống chia theo đơn vị nhỏ nhất là “Phum” và lớn hơn là “Srok”- người Việt Nam (dân tộc Kinh)  gọi trại là “Phum” và “Sóc”. Phong tục, lễ hội của người Khmer được hình thành từ đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần xã hội bao gồm:

     Nhà ở truyền thống là nhà sàn, nhưng do quá trình cộng cư, giao tiếp lâu năm với người Kinh, Hoa cũng như để thích ứng với điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý, môi sinh tại chỗ, nên nhà sàn của người Khmer nay được thay bằng nhà nền đất. Ngày nay chúng ta không còn thấy được nhà sàn của người Khmer, hiếm hoi lắm là trong vài ngôi chùa cổ Khmer.

    Về trang phục, trang sức thì người Khmer xưa nổi tiếng với kỹ thuật nhuộm vải từ quả mặc nưa gọi là “măc kh`loeur” để tạo màu đen tuyền bóng và lâu phai cho vải. Người đàn ông đi lễ mặc áo trắng, cổ tròn, hoặc đứng; bận quần âu dài, màu đen gọi là “Khô cheo, th`nê buôn”. Riêng trang phục trong lễ cưới, chú rễ mặc áo cổ đứng dài tay “ Ao Koth” khoác thêm áo choàng dài “Ao Phai” ở ngoài, quấn khăn màu đỏ trên vai, không bận quần mà phải quấn tấm vải “Som poth Som loy” hoặc thắt “Kbân” tức là quấn tấm vải có một đường thắt ở giữa. Người phụ nữ lớn tuổi, khi đi dự lễ ở phum, sóc hay chùa thì mặc kiểu áo cổ tròn màu trắng “Ao Bom pông, vêng”, người Việt gọi là “Tầm vông” có choàng chiếc khăn trắng, còn đối với các cô gái thì màu nào cũng được. Nhưng chủ yếu áo hành lễ là phải màu trắng, hoặc đen, riêng quần phải màu đen hoặc quấn sà rông. Cô dâu thường mặc kiểu áo dài Khmer, quấn Sa rông với các loại vải “Pha muông” hoặc “Leat” (loại vải có 3 lằn ở dưới chân hoặc loại vải trơn), đầu đội “Mô koth” màu óng ánh, một loại mão đặc biệt được thêu đính bằng “Slap Kom phêm” (cánh của con bọ cam) như là đầu rồng “Neak”.

     Về ẩm thực gồm có Pro hok ôp (tức Pro hok loại thường” và “Pro ok” Num ma chok tưk Som lo (Bún nước lèo)

     Ngôn ngữ chữ viết của người Khmer thuộc hệ Nam Á, nhóm Môn- Khmer, có chữ viết cỗ “Pruhmi” ảnh hưởng vùng phía Nam của Ấn Độ. Đến nay chữ viết cổ này được người Khmer cải tiến qua 10 lần để sử dụng.

     Người Khmer có tín ngưỡng thờ cúng “Arak” và thờ cúng “Neak Ta”, gồm 2 tôn giáo chính là Bà La Môn và Phật giáo theo phái Theravada (gọi là Phật giáo Nam tông Khmer). Trong một năm có 3 lễ hội quan trọng nhất là “Pithi Bon Chôl  Chhăm Thmây”- lễ vào năm mới, “ Pithi Bon Sene Đôn Ta”- lễ cúng ông bà và “Pithi Bon Om Tuk- Thvai Pres khe- Ooc Om boc”- lễ hội đua ghe ngo - cúng trăng - đút cốm dẹp.

    Kho tàng văn học nghệ thuật của họ được lưu truyền từ xưa đến nay rất phong phú về nội dung, đa dạng về loại hình và độc đáo hấp dẫn về nghệ thuật bao gồm: văn học, nghệ thuật biễu diễn, mỹ thuật điêu khắc, nghệ thuật sân khấu Rô băm, sân khấu Dù Kê hay gọi là “La khôn Ba sắc”.

    Các phong tục - lễ hội của đồng bào Khmer Sóc Trăng chia ra thành 4 nhóm gồm 13 phong tục - nghi  lễ theo vòng đời người Khmer; 8 lễ hội phong tục - lễ nghi theo tính ngưỡng dân gian; 9 nghi lễ theo tín ngưỡng tôn giáo; 6 lễ hội lớn theo truyền thống dân tộc Khmer. Với bảy đặc điểm: thờ cúng  Meeba, Arak, Neak Ta và Nàng Kong Hing - Kro pơ; tín ngưỡng Bà La Môn giáo thể hiện qua việc cúng tế các thần linh, thế lực huyền bí siêu nhiên; phật giáo gắn với nhà chùa sư sãi Nam Tông Khmer; tính thiêng trong các phong tục lễ hội; các lễ vật; tính cố kết cộng đồng trong phong tục, lễ hội; và cuối cùng là tính giao lưu và trao truyền văn hóa.

     Phong tục lễ hội của người Khmer chứa đựng rất nhiều yếu tố văn hóa, bao gồm những giá trị xã hội, đạo đức, thẩm mỹ, nghệ thuật. Do mối quan hệ giao lưu, tiếp xúc văn hóa với các tộc người trong cộng đồng dân cư, sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, để phù hợp xu thế thời đại, sự cải tiến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phong tục lễ hội người Khmer chịu nhiều ảnh hưởng và có những xu hướng biến đổi: như cách thức tổ chức trang phục lễ hội; không gian và thời gian tổ chức; lễ vật dâng cúng; nội dung và hình thức trong nghi lễ; về yếu tố nghệ thuật trình diễn trò chơi dân gian. Nhưng nhìn chung nó nhiều mặt tích cực bên cạnh một số ít mặt hạn chế.

     Với người Khmer, chùa là nơi thiêng liêng, nơi thờ Phật, gửi gắm niềm tin qua những việc làm hiện tại, ước mong, hy vọng ở cõi Niết bàn trong tương lai. Ngôi chùa gắn bó với mỗi người dân Khmer gần như suốt cuộc đời, từ lúc sinh ra, trưởng thành cho đến khi lìa xa trần thế, bởi với họ, “Sống vào chùa gửi thân, chết vào chùa gửi cốt”. Đã nói đến ngôi chùa thì không thể không nói đến sư sãi và Achar luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Achar cũng xuất thân từ người tu hành, sư sãi và Achar là người có học thức cao, hiểu biết chuyện đạo, chuyện đời, nhất là phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo và lễ hội. Hơn thế nữa sư sãi và Achar là những người uy tín trong cộng đồng, nên được người dân Khmer tôn kính, nghe lời và làm theo. Do vậy, sư sãi và Achar luôn chiếm một vị trí vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người Khmer trước đây cũng như hiện nay. Vì thế vấn đề đặt ra là cần xem trọng phát huy tốt vai trò của sư sãi và Achar, gắn việc đạo với việc đời, nhằm tạo môi trường, điều kiện để họ tham gia tích cực trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.

     Ta có thể kết luận phong tục và lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng nói riêng và Nam bộ nói chung đều là những giá trị sáng tạo độc đáo về văn hóa tinh thần hết sức phong phú và đa dạng. Có nhiều lễ hội mang tính đặc trưng riêng của người Khmer của vùng đất này, có sự khác nhau cả về nguồn gốc lẫn tên gọi và cách thức thực hiện giữa người Khmer Sóc Trăng nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long nói chung với người Khmer ở những vùng khác cụ thể là phong tục đua ghe Ngo hàng năm của người Khmer ở Sóc Trăng - lễ hội hoàn toàn có nguồn gốc xuất xứ ở tỉnh Sóc Trăng; lễ Sene Đôn Ta - lễ cúng ông bà, qua truyền thuyết hình thành cho thấy nguồn gốc của nghi lễ này hoàn toàn mang tính đặc trưng riêng của người Khmer ở vùng sông nước Sóc Trăng nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung vì có điểm khác biệt về mục đích ý nghĩa, thời gian và cách thức tổ chức lễ so với lễ Bon Phchum Bân của người Khmer ở nước bạn Campuchia.

     Các hoạt động của phong tục, lễ hội luôn chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của bà con Khmer, nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản là giải tỏa về mặt tâm linh, giữ gìn truyền thống văn hóa, tôn giáo của dân tộc; sáng tạo các giá trị văn hóa mới; giáo dục thế hệ trẻ về ý thức trách nhiệm đối với gia đình và xã hội; tạo ra không gian gắn kết cộng đồng vui chơi giải trí sau những ngày lao động vất vả. Trước những sự thay đổi to lớn của đất nước, đời sống vật chất và tinh thần của người Khmer ngày càng nâng cao; cùng với yếu tố giao lưu văn hóa với người Kinh và người Hoa trải qua quá trình cộng cư trên địa bàn là động lực thúc đẩy sự biến đổi trong quan điểm, nhận thức cũng như những giá trị, các chuẩn mực trong phong tục tập quán và lễ hội của người Khmer ở Sóc Trăng.

    Tóm lại có 30 phong tục và 6 lễ hội qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời còn thể hiện được sự biến đổi một số phong tục tập quán và lễ hội của đồng bào Khmer qua quá trình giao thoa văn hóa giữa 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, góp phần làm đa dạng và phong phú cho nền Văn hóa Việt Nam nói chung và nền văn hóa đa sắc màu của tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Đây chính là cơ sở cho việc đề ra định hướng xây dựng và phát triển các loại hình du lịch văn hóa tâm linh, văn hóa lễ hội của tỉnh Sóc Trăng./.

Nguồn tóm tắt kết quả thực hiện đề tài "Phong tuc lễ hội của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng" do Ths. Sơn Lương - Chủ nghiệm đề tài

Thanh Tú

Những bài viết liên quan

Lịch trình mẫu